I. ĐẠI CƯƠNG
Hẹp van hai lá là một bệnh khá phổ biến ở nước ta chiếm khoảng 40,3% các bệnh
tim mắc phải. Bệnh được phát sinh ở loài người từ khi bắt đầu sống thành từng
quần thể do điều kiện sinh sống thấp kém, chật chội thiếu vệ sinh dễ gây lây
nhiễm bệnh. Từ 1887 Bouillaud rồi Sokolski đã mô tả bệnh. Đến 1920 Duckett
Jones (Hoa kỳ) đã nghiên cứu bệnh này và đến 1944 ông mới công bố bảy tiêu
chuẩn chẩn đoán bệnh.. Cũng những năm này Cutter và Levine Phillipe (Hoa kỳ)
tìm cách phẫu thuật hẹp van hai lá đồng thời trong năm đó Souttar tại Anh cũng
đã mổ được hẹp van hai lá. Giai đoạn này bệnh hẹp van hai lá là bệnh tim mạch
phổ biến nhất, gây tàn phế và tử vong nhiều. Từ năm 1944 việc phát minh ra
Penixillin diệt các loại liên cầu và đặc biệt tạo ra loại Penixillin chậm
(Benzathyl Penixillin) có tác dụng phòng ngừa bệnh này do đó đến nay ở các nước
phát triển như Thụy điển, Hà lan và Đức bệnh thấp tim gần như mất hẳn.
Tuy vậy, ở các nước chậm phát triển bệnh này còn đang phổ biến. Bệnh hay gặp ở
tuổi lao động 20 - 30 tuổi tỷ lệ bệnh hẹp hai lá rất cao khoảng 60 - 70 %, tỷ
lệ tử vong đến 5%. Bệnh có nhiều biến chứng phức tạp và đưa đến tàn phế. Bệnh
gặp ở nữ nhiều hơn nam (3/1) và ở nông thôn mắc nhiều hơn thành thị.
II. BỆNH NGUYÊN VÀ CƠ CHẾ SINH BỆNH
Chủ yếu do thấp tim 99%, số còn lại do bẩm sinh, hoặc do Carcinoid ác tính,
lupus ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp có nghiên cứu còn cho là do virus
Coxsackie gây ra. Tác nhân gây bệnh chủ yếu là do liên cầu khuẩn tan huyết nhóm
A gây viêm họng gây tổn thương thấp tim. Sở dĩ liên cầu ở họng gây bệnh thấp
tim mà không vào các cơ quan khác là do có các đường thông bạch mạch giữa họng
và tim. Cấu trúc bào thai học cho thấy có đường nối mạch máu và thần kinh giữa
tim và cổ.
Năm 1976 Taranta (Hoa kỳ) chứng minh được cơ chế bệnh sinh trực tiếp của độc tố
liên cầu khuẩn lên tim. Các kháng thể kháng tim xuất hiện ở bệnh nhân thấp tim
có viêm tim, có cả các phản ứng kháng nguyên chéo giữa các cấu trúc ở tim và
liên cầu A. Nói tóm lại cơ chế sinh bệnh như sau:
- Liên cầu khuẩn nhóm A xâm nhập vào cơ thể gây viêm họng đồng thời sinh ra
những độc tố. Ngoài ra, trong mô tim người ta cũng tìm thấy những chất liệu có
cấu trúc miễn dịch giống protein M vì vậy các kháng thể hình thành cũng chống
luôn lại các van tim.
- Hiện tượng tự miễn chéo
nhầm lẫn gây viêm tim và viêm khớp. Viêm tim có thể tự khỏi nhưng sau 2 năm nó
có thể để lại di chứng ở van tim, cứ 3 bệnh nhân thì có 1 bệnh nhân bị di chứng
ở van tim như dầy dính xơ gây hẹp van tim.
III. TRIỆU CHỨNG HỌC
1. Lâm sàng
1.1. Toàn thân:
Nếu mắc bệnh trước tuổi dậy thì, bệnh nhân kém phát triển thể chất gọi là ”lùn
hai lá” (nanisme mitral). Nếu xảy ra sau tuổi dậy thì trẻ phát triển gần như
bình thường.
1.2. Cơ năng
- Có khi phát hiện tình cờ bởi khám sức khỏe hàng loạt mà bệnh nhân không có
triệu chứng cơ năng nào ngay cả khi gắng sức.
- Có khi bệnh nhân đi khám vì khó thở, ho và khạc ra máu, hồi hộp đánh trống
ngực, nuốt nghẹn do tâm nhĩ chèn ép vào thực quản nhất là khi gắng sức.
1.3. Dấu chứng
thực thể: Nghe tim là chủ yếu, có thể nghe khi nằm ngửa, nằm nghiêng trái hoặc
có khi phải để bệnh nhân làm động tác gắng sức. Hẹp van hai lá điển hình thường
nghe được các dấu chứng sau theo tần suất hay gặp.
- Tiếng T1 đanh ở mỏm (do
van xơ dày đập vào nhau).
- Rung tâm trương (RTTr)
ở mỏm do van hẹp luồng máu bị tống mạnh xuống thất trái va vào các cột cơ và
cầu cơ ở thất trái bị viêm dày xơ cứng, vôi hóa hoặc RTTr mất khi van hẹp khít,
van và tổ chức dưới van dày, vôi hóa, dính với nhau.
- T2 mạnh ở đáy tim
do sự tăng áp lực động mạch phổi do hai van ĐMC và ĐMP đóng không cùng lúc tạo
nên T2 tách đôi (van ĐMP đóng muộn hơn van ĐMC).
- Tiếng thổi tiền tâm thu
ở giữa tim hay ở mỏm do luồng máu đi qua chỗ hẹp nếu còn ứ lại ở nhĩ trái, nhĩ
trái phải bóp thêm một lần nữa để đẩy nốt số máu xuống thất trái; nhưng khi bị
rung nhĩ hay nhĩ trái giãn rồi thì không còn nghe tiếng thổi tiền tâm thu nữa.
- Tiếng clắc mở van hai lá ở mỏm hoặc
trong mỏm. Tiếng này chỉ có khi van còn mềm.
- Khi áp lực động mạch
phổi tăng cao thất phải giãn nhiều làm giãn vòng van ĐMP gây ra tiếng thổi tâm
trương ở van ĐMP gọi là tiếng thổi Graham - Steel.
Cũng có những trường hợp hẹp van hai lá khi khám bệnh không nghe được gì mà nhờ
biến chứng và nhờ cận lâm sàng nhất là siêu âm gọi là hẹp van hai lá ” câm”.
2. Cận lâm sàng
2.1. Điện
quang: Có 2 tư thế để thăm dò trong hẹp van 2 lá:
- Tư thể thẳng:
+ Bên phải: Tâm nhĩ trái
to lấn sang phía phải thường có 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Nhĩ trái to
tạo thành 2 cung song song với bờ trong là nhĩ trái, bờ ngoài là nhĩ phải.
Giai đoạn 2: Nhĩ trái to
lấn ra cắt cung nhĩ phải, tạo thành hai cung cắt nhau.
Giai đoạn 3: Nhĩ trái to
lấn ra ngoài tạo thành 2 cung song song mà cung ngoài là nhĩ trái và cung trong
là nhĩ phải (ngược với giai đoạn 1).
+ Bên trái: có 4 cung:
cung ĐMC, cung ĐMP, cung tiểu nhĩ trái, cung dưới trái với mỏm tim hếch lên
(thất phải lớn).
Rốn phổi: Đậm, tạo nên ở
2 bên bóng tim hai khoảng mở rộng và ranh giới không rõ. Hai phế trường mờ do ứ
huyết, có thể thấy được hình Kerley B. Nếu khi có tình trạng tăng áp lực ĐMP
chủ động thì thấy vùng rốn phổi đậm và vùng rìa phổi rất sáng.
- Trên phim nghiêng có uống barít:
thực quản bị chèn ép ở 1/3 giữa. Mất khoảng sáng trước tim hoặc sau xương ức
(thất phải lớn).
2.2. Điện tâm
đồ
- Giai đoạn đầu chưa hẹp
khít hoặc chưa ảnh hưởng nhiều trên các khoang tim: điện tim còn bình thường.
- Giai đoạn sau: dày nhĩ trái với P (0,12s hoặc P hai pha, pha âm lớn hơn pha
(+) ở V1. Trục điện tim lệch phải và dày thất phải.
Ngoài ra còn có thể thấy
tình trạng rối loạn nhịp như ngoại tâm thu nhĩ, nhịp nhanh nhĩ, rung nhĩ là hay
gặp hơn cả. Có thể có blốc nhánh phải không hoàn toàn.
2.3. Siêu âm tim
Là phương tiện chẩn đoán xác định chính
xác hẹp van hai lá nhất là khi hẹp van hai lá trên lâm sàng không phát hiện
được. Siêu âm còn cho phép ta đánh giá van và tổ chức dưới van có dày không để
ta có quyết định thay van hay tách van.
Trong hẹp đơn thuần
- Kiểu một bình diện: Van
lá van trước và sau dính vào nhau nên di động song song cùng chiều, các lá van
dày lên. Van có dạng hình cao nguyên hay giày trượt tuyết. Độ dốc tâm trương EF
bị giảm. Nếu hẹp khít độ dốc tâm trương có thể giảm <15 mm/s. Đường kính nhĩ
trái tăng. Đường kính thất phải tăng, vách thất phải dày. Có thể thấy được dấu
tăng áp ĐMP gián tiếp.
- Siêu âm 2 chiều: Xác định
được sự di động của van, do kích thước buồng tim đồng thời đo được diện tích lỗ
van.
- Siêu âm Doppler có thể
phát hiện được hẹp van hai lá có kết hợp với các tổn thương khác để có thái độ
xử trí thích đáng. Đồng thời đo áp lực động mạch phổi, theo dõi áp lực động
mạch phổi trước và sau điều trị.
2.4. Tâm thanh cơ động đồ
Kết hợp với điện tâm đồ để đánh giá
mức độ hẹp của van dựa vào khoảng Q - T1 và khoảng T2 - CM. Nếu Q - T1 càng dài
và T2 - CM càng ngắn thì hẹp van hai lá khít, hiện nay thăm dò này ít sử dụng
do đã có siêu âm tim
2.5. Thông tim
Thấy được sự chêch lệch
áp tâm trương giữa nhĩ trái và thất trái, dấu hiệu đặc trưng của hẹp hai lá.
Hiện nay, siêu âm có tính chất quyết định nên ít sử dụng phương tiện này. Người
ta chỉ sử dụng khi có nghi ngờ có hở hai lá hoặc các bệnh van động mạch chủ
phối hợp (hiếm).
IV. CHẨN ĐOÁN
1. Chẩn đoán xác định
Dựa vào các tiêu chuẩn
lâm sàng và cận lâm sàng, như đã mô tả trên. Quyết định nhất vẫn là dấu nghe
tim và siêu âm tim.
2. Chẩn đoán
phân biệt
- Rung tâm trương trong
hẹp van 3 lá: RTTr ở trong mỏm, T1 không đanh. Điện tim có dày nhĩ phải. Siêu
âm tim là quyết định.
- U nhầy nhĩ trái (Myxoma): nghe rung tâm trương thay đổi theo tư thế. Không có
T1 đanh. Bệnh nhân thường hay có ngất. Chẩn đoán dựa vào siêu âm tim.
3. Chẩn đoán
giai đoạn
Có 4 giai đoạn của hẹp
hai lá
- Giai đoạn 1: Không có triệu chứng
cơ năng kể cả khi gắng sức. Khám lâm sàng phát hiện tình cờ.
- Giai đoạn 2: Có hội
chứng gắng sức rõ: Khó thở, hồi hộp, đánh trống ngực, ho hoặc ho ra máu, chưa
có biểu hiện suy tim.
- Giai đoạn 3: Có khó thở
nhiều, có suy tim phải nhưng điều trị có hồi phục.
- Giai đoạn 4: Hẹp van 2
lá có suy tim nặng, điều trị không hồi phục.
4. Chẩn đoán
thể
4.1. Thể đơn
thuần: cơ thể dung nạp tốt, bệnh nhân chưa có dấu hiệu cơ năng và thường phát
hiện bệnh tình cờ.
- Thể điển hình: Như mô
tả trên và khi khám lâm sàng, X quang, điện tim đã có thể chẩn đoán được.
- Hẹp van hái lá ”câm”:
Bệnh nhân có thể có hoặc không có triệu chứng cơ năng. Nghe tim không thấy các
dấu hiệu đặc trưng các hẹp van hai lá. Thể này đòi hỏi tìm các biến chứng của
hẹp van hai lá và cận lâm sàng nhất là siêu âm tim giúp chẩn đoán.
- Thể tiến triển: thường
là những trường hợp hẹp van hai lá khíp hay rất khít. Bệnh nhân vào viện với
các biến chứng nặng nề. Rối loạn nhịp, hen tim, phù phổi cấp, tắc mạch vv...
4.2. Thể phối
hợp
- Hẹp hai lá phối hợp hở
van hai lá: phải phân biệt hở hai lá là chính, hẹp là phụ hay ngược lại.Nếu hở
van hai lá là chủ yếu: nghe TTT mạnh ở mõm tim tiếng thổi to, lan xa, sờ có
rung miêu tâm thu. Rung tâm trương nhẹ, X quang, siêu âm, điện tim có dày giãn
tâm thất trái và nhĩ trái. Chủ yếu siêu âm tim đánh giá được mức độ hở hai lá
đặc biệt là với siêu âm Doppler.
- Phối hợp với bệnh van
động mạch chủ.
+ Hẹp van hai lá phối hợp
hở động mạch chủ: ngoài hẹp van hai lá còn nghe tiếng thổi tâm trương ở liên
sườn III bên trái và liên sườn II bên phải lan xuống dọc bờ ức trái, điện tim
có dày thất trái, siêu âm doppler tim cho phép chẩn đóan.
+ Hẹp hai lá kết hợp hẹp
động mạch chủ: ngoài triệu chứng hẹp van hai lá còn nghe thêm tiếng thổi tâm
thu ở liên sườn III bên phải và liên sườn II bên phải lan lên 2 bên động mạch
cảnh kèm sờ rung mưu.
Chẩn đoán điện tim có dày
thất trái tâm thu, X quang và siêu âm tim cho phép chẩn đoán.
- Hẹp van hai lá kết hợp bệnh van 3 lá:
+ Hẹp hai lá kết hợp hở 3
lá: nghe TTT trong mõm tim hoặc ở ngay mũi ức. tiếng TTT mạnh lên khi hít vào
sâu và nín thở, có thể sờ gan to và đập theo nhịp đập của tim. Tĩnh mạch cổ
đập. Phổi thường sáng hơn.
+ Hẹp van hai lá kết
thông liên nhĩ: Hẹp hai lá kết hợp thông liên nhĩ gọi là hội chứng Lutembacher.
Chẩn đoán xác định nhờ siêu âm tim và thông tim.
Hẹp van hai lá có thể còn
phối hợp với các bệnh lý tim mạch khác như tăng huyết áp nhưng hiếm gặp
5. Chẩn đoán
biến chứng
Hẹp van hai lá thường có
các biến chứng sau.
5.1. Rối loạn nhịp tim
- Rối loạn nhịp xoang thường là nhịp
nhanh. Ngoại tâm thu nhĩ, cơn nhanh trên thất.
- Cuồng nhĩ và rung nhĩ là những biến
chứng nặng nề của HHL. Từ những rối loạn nhịp tim nay có thể gây ra biến chứng
tắc mạch ngoại vi và càng lâu sẽ dẫn đến suy tim phải.
5.2. Tắc mạch:
Có 2 cơ chế tắc mạch:
- Tắc mạch ở vòng đại tuần hoàn: Do máu ứ ở nhĩ trái chậm lưu chuyển xuống thất
trái nên máu dễ đông. Nếu các rối loạn nhịp nhanh như rung nhĩ, nhịp nhanh trên
thất tạo điều kiện thuận lợi hình thành cục máu đông. Sau khi nhịp tim chậm lại
cục máu được đưa xuống thất trái và vào đại tuần hoàn gây tắc mạch não, chi,
thận, mạc treo vv...
- Tắc động mạch phổi: Do cục máu đông được hình thành từ các tĩnh mạch ngoại
biên, vào thất phải gây tắc động mạch phổi. Hoặc có thể do áp lực phổi tăng
trong hẹp hai lá nên có thể hình thành cục máu đông tại chỗ gây tắc động mạch
phổi.
5.3. Nhiễm
trùng
- Nhiễm trùng tại phổi do máu ứ động mạch phổi là môi trường phát triển cho vi
trùng: Có thể viêm phổi lan tỏa, viêm phổi khu trú.
- Nhiễm trùng tại tim có thể gây ra viêm nội tâm mạc bán cấp Osler. Biến chứng
này hiếm gặp nhưng khi xảy ra thì tiên lượng xấu vì điều trị khó và có thể thất
bại.
5.4. Suy tim
- Có thể có cơn hen tim
phù phổi cấp hay gặp khi gắng sức hoặc ban đêm. Do máu ứ đọng trong phổi nhiều
ban đêm thần kinh phó giao cảm hoạt động mạnh nên làm dãn mạch, thoát huyết
tương vào phế nang gây phù phổi.
- Suy tim phải. Đây cũng là biến chứng đồng thời cũng là giai đoạn cuối cùng
của bệnh. Nếu không được điều trị triệt để. Các biến chứng trên có thể xảy ra
khi bệnh nhân gắng sức về tinh thần, thể chất và nhân một nhiễm trùng ở da, ở
phổi. Đặc biệt ở phụ nữ có thai, lúc chuyển dạ hay thời kỳ kinh nguyệt.
V. ĐIỀU TRỊ
1. Điều trị nội khoa
Chỉ có tác dụng
tốt khi hẹp van hai lá mức độ nhẹ và trung bình. Nếu hẹp khít, với diện tích lỗ
van <1.5 cm2 thì điều trị ngoại khoa mới có tác dụng.
1.1. Điều
trị suy tim
1.1.1.
Chế độ sinh hoạt ăn uống
Hạn chế lao động
nặng, ăn lạt, điều trị phòng thấp tái phát, phòng ngừa Osler.
1.1.2.
Lợi tiểu
Khi cơ thể tăng
khoảng 2 kg so với trước.
Furosemid 40 mg
x 1-2 viên/ngày.
Trong cơn suy
tim cấp có thể dùng Lasix 20 mg tiêm tĩnh mạch chậm. Chú ý khi dùng lợi tiểu
cần dùng thêm kali (nên cho loại muối K+ hữu cơ tốt hơn vô cơ, như K+, Mg++
aspartate biệt dược Panangin) đề phòng hạ kali máu, dễ ngộ độc Digital.
1.1.3.
Digital
Ít có tác dụng
trong suy tim do hẹp hai lá, ngay cả khi có suy tim phải. Digital có tác dụng
tốt trong suy tim do hẹp hai lá có biến chứng rung nhĩ để ngăn ngừa các cơn
rung nhĩ có nhịp thất nhanh, làm nặng thêm tình trạng suy tim, có thể dùng liều
ngấm đủ chậm. Digital 0,25 mg x 1 viên/ ngày trong 5 ngày, nghỉ 2 ngày rồi dùng
lại. Hoặc Digital 0,25 mg x 1 viên / ngày trong 3 ngày, nghỉ 3 ngày rồi dùng
lại.
Khi điều trị
Digital cần lưu ý dấu chứng ngộ độc Digital như:
- Bệnh nhân nôn
mữa, đau bụng, mờ mắt, nhìn đôi, đi cầu phân lỏng.
- Ngoại tâm thu
thất nhịp đôi hay ác tính.
- Hoặc nhịp tim
tăng vọt lên (trong khi đang dùng Digital) hoặc chậm lại với Blốc nhĩ thất các
cấp, hoặc nhịp bộ nối.
- Nếu xuất hiện
các triệu chứng trên nên ngừng Digital và cho tăng cường thêm Kali bằng đường
tĩnh mạch hoặc đường uống, chú ý bổ sung thêm Mg++.
1.1.4.
Các thuốc giãn mạch
- Được sử dụng
nhiều trong những năm gần đây. Thuốc giãn mạch có thể điều trị liên tục, kéo
dài. Thuốc giãn mạch có tác dụng giảm tiền gánh, hậu gánh giúp cho suy tim hồi
phục tốt.
- Đối với suy
tim trong hẹp hai lá tốt nhất là nhóm Nitrat và dẫn xuất nhất là khi hẹp hai lá
có tăng áp lực động mạch phổi, phù phổi mạn tính và cấp tính. Risordan LP 20 mg
x 1-2 viên / ngày, hoặc Imdur (mononitrate Isosorbid) 60 mg x 1/2 - 1 viên /
ngày.
1.2. Điều
trị phòng tắc động mạch hệ thống
- Tắc mạch có
thể: động mạch não, động mạch mạc treo, động mạch ngoại vị, động mạch lách,
động mạch thận, động mạch vành.....
- Biến chứng tắc
mạch gia tăng ở bệnh nhân hẹp van hai lá có biến chứng rung nhĩ và suy tim, đặc
biệt khi mới xuất hiện rung nhĩ.
- hẹp van hai lá
có biến chứng tắc mạch nhiều hơn hở van hai lá. 20-60% tắc lại lần thứ hai sau
tắc lần thứ nhất trong 6-12 tháng nếu không được dự phòng hữu hiệu bằng các
thuốc chống đông.
- Điều trị tắc
mạch càng sớm càng tốt:
+ Heparin 10.000
- 20.000 UI / ngày x 5 - 10 ngày. Có thể dùng Heparin có trọng lượng phân tử
thấp đặc biệt đối với tắc mạch não. Sau đó dùng các thuốc kháng đông loại kháng
Vitamin K như Sintrom, Previscan, Dicoumarin gối đầu 48-72 giờ trước khi ngừng
Heparin duy trì tỷ Prothrombin còn khoảng 30-35% hoặc IRN 2,5-3 là tốt nhất.
+ Sau khi chuyển
rung nhĩ về nhịp xoang bằng thuốc hoặc sốc điện, nong van hai lá là phương pháp
dự phòng tắc mạch tái phát tốt nhất. Hoặc ở những bệnh nhân không có điều kiện
nong van, phẫu thuật sưả van, thay van có thể uống thuốc dự phòng tắc mạch kéo
dài nhiều năm ở liều thấp 100 - 500 mg / ngày bằng Aspirin (aspegic 100mg),
dipiridamole vv...
1.3. Điều
trị dự phòng
- Phòng thấp tái
phát bằng Benzathylpenixilin 1,2 triệu đơn vị mỗi 15-20 ngày, tiêm bắp sâu sau
khi thử test.
- Ngoài ra đề
phòng bội nhiễm phổi hoặc Osler bằng kháng sinh Penixilin nhanh hoặc
Erythromycin 0,5g trước các can thiệp như nhổ răng, xẻ nhọt ngoài da vv... Khi
có dấu hiệu viêm tĩnh mạch chi dưới có thể phòng tắc động mạch phổi bằng cách
đặt lưới lọc tĩnh mạch chủ dưới.
2. Điều trị ngoại khoa
Điều trị phẫu
thuật van hai lá đã có nhiều tiến bộ. Nong van hai lá bằng tay hoặc bằng dụng
cụ hoặc bằng bóng (catheter baloon).
2.1. Nong
van hai lá bằng bóng
Đưa ống thông
qua đường tĩnh mạch đùi đi vào nhĩ phải, xuyên qua vách liên nhĩ vào nhĩ trái
để nong van 2 lá bằng bóng. Kỹ thuật này đã được thực hiện tại Việt Nam. Phương
pháp này được chỉ định cho bệnh nhân trẻ tuổi <40, hẹp van hai lá đơn
thuần, van còn mềm mại, tổ chức dưới van chưa hư biến nhiều, không có cục máu đông
ở nhĩ trái hoặc tiểu nhĩ. Biến chứng của phương pháp này là chọc thủng thành
tâm nhĩ trái gây ra tràn máu màng ngoài tim cấp, gây chèn ép tim cấp.
2.2. Nong
van hai lá kín (close mitral commissurotomy)
- Bằng tay hoặc
dụng cụ: thực hiện ở những bệnh nhân: có diện tích lỗ van hai lá hẹp <1.5
cm2, van còn mềm hoặc xơ hoá, chưa có vôi hoá nhịp xoang hay rung nhĩ, nhưng
không có tiền sử tắc mạch, không có bệnh van động mạch chủ, hoặc hở van hai lá
(nếu hở van hai lá nhẹ <2/4 thì không chống chỉ định), tuổi < 40, không
bị bội nhiễm phổi hoặc thấp tim đang tiến triển, không bị Osler.
- Kết quả sau
nong có 5-10% trường hợp hết triệu chứng hẹp van hai lá, triệu
chứng tăng áp lực động mạch phổi giảm dần và trở về bình thường. Một số bệnh
nhân nong van hai lá không kết quả hoặc thấp tim tái phát gây dính lại các mép
van phải nong lại lần 2 nhưng kết quả thành công thấp hơn và tỷ lệ tử vong cao
hơn 10 lần lúc ban đầu.
- Biến chứng khi
nong van và sau khi nong
+ Suy tim và rối
loạn nhịp sau phẫu thuật
+ Sốt
+ Hội chứng sau
nong van
+ Tràn dịch màng
ngoài tim
+ Tắc động mạch
não thoáng qua.
+ Hở van hai lá
sau khi nong thường gặp ở những bệnh nhân bị vôi hoá van hư biến nhiều tổ chức
dưới van.
+ Ngừng tim khi
đang nong
+ Hen tim, phù
phổi cấp
+ Loạn nhịp tim
(ngoại tâm thu thất, nhĩ, rung cuồng nhĩ, nhịp nhanh kịch phát trên thất và
thất, rung nhất)
+ Osler gây đứt
dây chằng, sa van hai lá
2.3. Mỗ
tim hở
Cần có tim phổi
nhân tạo
- Sửa van hai
lá: phẫu thuật viên có thể mở rộng hoặc thu hẹp vòng van hai lá, cắt bỏ phần bị
sùi loét, vôi hoá hoặc lấy cục máu đông ở nhĩ, thất, và các lỗ thũng trên mặt
lá van khâu nối các trụ cơ và dây chằng bị đứt. Bệnh nhân không phải thay van
nên giảm được nguy cơ miễn dịch thải ghép, giảm nguy cơ vôi hoá, tắc mạch nên
việc chống đông đơn giản hơn thay van, giảm nguy cơ vôi hoá, tắc mạch nên liệu
pháp chống đông đơn giản hơn.
- Phẫu thuật
thay van: được chỉ định trong các trường hợp
+ hẹp van
hai lá tổ chức van xơ dày vôi hoá nặng
+ Hẹp kết hợp hở
van hai lá nặng hay hở van hai lá đơn thuần.
+ Sùi loét van
do Osder
- Các loại van
thường dùng thay van hai lá
+ Van
Starr-Edwards: có lồng giữ quả bóng bi, khi thất bóng bi chuyển động lên phía
nhĩ đóng van nhĩ thất.
+ Van
SCDT-Custer là dạng van Starr cải tiến.
+ Van
Magovevu-cromtè là van Starr cải tiến
+ Van Kuy-Suzuki
thay bóng bi bằng đĩa phẳng, có nhiều ưu điểm về huyết động hơn dạng van bi,
khi phẫu thuật thay van tỷ lệ tử vong thấp hơn, giảm quá trình tạo cục máu đông
ở van và quanh van, là van nhân tạo mới nhất được cải tiến từ van Starr. Với
hình dạng và chất liệu khác nhau như Titanium, Teflon, Pyrolytic-carbon,
Silastic, Polyproline....đã tạo được nhiều loại van khác nhau:
+ Cuged-ball
+ Starr-Edwards: 7 loại.
Smeloff-custer: 2 loại: Braưald-custer, Cuged-disc
+ Beall có 5 loại: Kay-Shiley, Kay
Suzuki, Starr-Edwards, Cooley-Cutter, Tilting disc.
+ Bjork-Shiley có 3 loại
+ Lalehei-kaster: 4 loại
Tổng cộng có 27 loại van nhân tạo
- Van hai lá sinh học: Phục hồi một
cách cơ bản huyết động, không bị nhiễm khuẩn, không tạo cục máu đông, không bị
thủng đứt vòng van sau thời gian dài phẩu thuật, vì vậy nó mở ra triển vọng
phát triển sau này.
2.4. Biến chứng sau khi
thay van
Ngoài các biến chứng như nong van còn
có thêm các biến chứng.
- Đột tử trong khi phẫu thuật
- Đột tử do hoạt động của van bị rối
loạn.
- Dính kết Fibrin, sau đó vôi hoá tại
van và quanh van mạn.
- Osler do vi
khuẩn và nấm.
- Abces quanh
vòng van.
- Hở quanh vòng
van hai lá.
- Block nhĩ thất
cấp cao hoặc bloc bó His (do cắt các trụ cơ)
- Hẹp hoặc hở
ĐMC thứ phát sau thay van hai lá
- Giảm khả năng
bù đắp tuần hoàn khi gắng sức.
- Khó điều trị
bằng phương pháp sốc điện, tạo nhịp khi cần thiết.
Điều trị nong
van hai lá hay phẫu thuật tim kín hay hở cần tiếp tục điều trị phòng thấp,
phòng Osler, điều trị chống đông, suy tim thì mới kéo dài cuộc sống của bệnh
nhân.
0 nhận xét:
Post a Comment
Cảm ơn bạn đã để lại những ý kiến quý báu. Nam rất mong bạn ủng hộ nhiều hơn nữa cho http://www.duongvannam.name.vn/