Theo dõi sự phát triển thể chất của trẻ theo từng độ tuổi là vấn đề quan trọng trong chăm khóc trẻ khoẻ. Khám trẻ toàn diện là phải đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ có phù hợp với lứa tuổi không song song với việc thăm khám lâm sàng phát hiện ra bệnh lý.
1.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất
1.1. Sụn tăng trưởng
Phát triển nhờ vào sụn tăng
trưởng, gồm 2 quá trình:
- Quá trình tăng
trưởng về chiều cao.
- Quá trình trưởng
thành tương ứng với hiện tượng cốt hoá từ từ.
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng
- Yếu tố di truyền
và giống nòi.
- Yếu tố dinh dưỡng
và chuyển hoá.
Nếu không có đủ
dinh dưỡng thì quá trình tăng trưởng sẽ không bình thường. Điều đó giải thích , ở các nước thế giới thứ 3, tình trạng suy dinh dưỡng
sẽ làm cho trẻ có chiều cao thấp. Những bệnh lý kém hấp thu khác cũng làm thiếu dinh dưỡng và dẫn đến phát triển
chiều cao thấp. Suy thận cũng dẫn đến
lùn.
- Yếu tố nội
tiết:
+ Nội tiết tố kích
thích tuyến giáp (TSH) và nội tiết tố tăng trưởng (GH)
của tuyến yên ảnh hưởng lên quá trình tăng trưởng về chiều dài của
sụn.
+ Nội tiết tố tuyến giáp ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành hơn là quá
trình tăng trưởng, suy tuyến giáp sẽ làm ảnh hưởng nặng nề đến sự cốt hoá, vì
vậy cần thiết phải đặt vấn đề sàng lọc thiếu hormone tuyến giáp ngay từ thời kỳ
sơ sinh để có biện pháp điều trị nhằm cho trẻ đạt được sự phát triển thể
chất bình thường theo tuổi .
+ Nội tiết tố sinh dục chỉ ảnh hưởng đến gần giai đoạn trưởng thành. Nó
làm chiều cao tăng nhanh lúc bắt đầu dậy thì, có ảnh hưởng nhiều hơn lên quá
trình trưởng thành
(nó kết thúc sự phát triển về chiều cao bằng cách cốt hoá vĩnh
viễn những sụn tăng trưởng)
+ Glucocorticoide ít có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng bình
thường.
Nếu hormone này
được tăng tiết hoặc được đưa từ ngoài vào sẽ ức chế quá trình tăng trưởng điển hình trong hội chứng thận hư trẻ đang giai đoạn
phát triển.
- Yếu tố tinh thần kinh.
2. Những chỉ số đánh giá
sự phát triển về thể chất
Sự phát triển thể
chất gồm 2 hiện tượng:
- Hiện tượng số
lượng: đo bằng centimeter (cm) hoặc gram
(g).
Gồm cân nặng, chiều
cao, vòng đầu.
- Hiện tượng trưởng
thành: đó là sự thay đổi về chất lượng của các mô (mô xương, răng, cơ quan
sinh dục, tâm thần kinh).
2.1. Nghiên cứu chính xác sự phát triển thể
chất
Những biểu đồ: dựa
vào các biểu đồ này sẽ biết mối liên quan giữa chiều cao và vòng đầu so với
tuổi, cân nặng so với chiều cao.
Trong thực hành sử
dụng 2 loại biểu đồ:
- Biểu đồ tính
theo độ lệch chuẩn DS (SD)
Giới hạn thay đổi
bình thường nằm giữa - 2SD và + 2SD
- Biểu đồ được diễn
tả bằng percentile hoặc centile .
2.2. Những chỉ số đánh giá sự phát triển thể chất trẻ
em
2.2.1.Tăng trưởng về chiều
cao
Ghi nhớ những mốc
tăng trưởng sau:
Tăng trưởng nhanh
từ 0 - 4 tuổi: 50cm lúc sinh, 100cm lúc 4 tuổi.
Tăng trưởng trung
bình 5 - 6 cm/năm từ 4 tuổi đến tuổi bắt đầu tuổi dậy thì.
Giảm dần và ngừng
tăng trưởng vào cuối tuổi dậy thì.
Theo dõi sự tăng
trưởng bằng những biểu đồ (đã trình bày ở trên) cho phép:
+ So sánh sự phát triển của
đứa trẻ với sự phát triển trung bình có nghĩa là so sánh trẻ với những trẻ cùng
tuổi, cùng giới, cùng nòi giống.
+ Đánh giá tốc độ tăng trưởng
bằng cách nghiên cứu biểu đồ phát triển của đứa trẻ đó trong nhiều
năm.
Bình thường đứa trẻ phát triển trong vùng tăng trưởng về
chiều cao bình thường của nó. Nếu như trong quá trình
theo dõi thấy có sự thay đổi về vùng tăng trưởng chiều cao phản ánh một sự quá
phát triển hoặc một sự kém phát triển về tốc độ tăng trưởng, cả 2 đều biểu hiện
sự bất thường.
Ngoài ra trong thực
hành có thể dùng công thức sau để tính nhanh một cách ước lượng chiều cao của
trẻ:
X = 75 cm + 5 cm (N
-1) , N : số tuổi của trẻ lớn hơn 1
tuổi
|
2.2.2. Tăng trưởng vòng đầu
Tăng trưởng não bộ tăng nhanh trong năm đầu và gần như
kết thúc vào 6 tháng tuổi. Để theo dõi sự tăng trưởng của vòng đầu sẽ đo đường
kính của vòng đầu và theo dõi bằng biểu đồ DS ( SD)
hoặc biểu đồ percentile. Có công thức tính mối liên quan giữa vòng đầu của trẻ ( 1 tuổi và chiều cao như
sau:
PC = T/2 +
10 PC: đường kính vòng đầu; T: chiều
cao
|
2.2.3.
Sự tăng trưởng về cân nặng
Theo dõi sự phát
triển cân nặng bằng biểu đồ DS hoặc biểu đồ Percentile. Cũng có ý nghĩa giống
như theo dõi sự phát triển chiều cao bằng biểu
đồ.
Trong thực hành lâm
sàng có thể sử dụng công thức tính nhanh sau đây khi trong tay không có sẵn
biểu đồ biểu diễn chiều cao, cân nặng, vòng đầu
:
Cân nặng trẻ dưới 6
tháng tuổi = Cân nặng lúc sinh + 600
|
Cân nặng trẻ trên 6
tháng = Cân nặng lúc sinh + 500
|
Trong đó n là số tháng, N là số
tuổi.
3. Những chỉ số đánh giá
sự trưởng thành
3.1. Tuổi
xương
Thường được sử dụng nhiều nhất để đánh giá sự trưởng
thành.
Đánh giá dựa trên
sự xuất hiện từ từ những điểm cốt hoá của sụn đầu xương dài hoặc xương ngắn
(khối xương cổ chân và cổ tay) từ lúc sinh đến tuổi dậy
thì. Hình vẽ minh hoạ.Tuỳ theo sự trưởng thành của
xương, người ta ghi nhận thời điểm xuất hiện, dạng, thời điểm cứng của những
điểm cốt hoá để định tuổi xương. Phương pháp này cần đến những xét nghiệm về
X.Q để có chỉ định tuỳ theo tuổi chụp những vùng
xương mà có nhiều biến đổi nhất như:
- Từ lúc sinh đến 1 tuổi: bàn chân và chi dưới trái (đối với một số tác
giả người ta khuyên nên chụp 1/2 bộ xương trái thẳng
sau)
- Từ 6 tháng đến tuổi dậy thì : bàn tay và cổ tay trái trên film thẳng
(dựa trên Atlas của tác giả Greulich và Pyle), minh hoạ hình
vẽ.
- Từ tuổi dậy thì
nghiên cứu xương của cổ tay và bàn tay.
Tất cả những điều
trên để nhằm xác định 3 thông số mà thường phù hợp với nhau trên cùng một đứa
trẻ, được đánh giá là phát triển thể chất bình thường:
- Tuổi đời: tuổi
thực sự được tính theo ngày sinh.
- Tuổi chiều cao:
tuổi được ghi nhận theo chiều
cao.
- Tuổi xương: được
ghi nhận theo mức độ trưởng thành của
xương.
3.2. Tuổi tính theo
răng
Người ta cố gắng
nêu ra một mối liên quan giữa tuổi theo sự xuất hiện
của những răng vĩnh viễn, nhưng trên thực hành lâm sàng không sử
dụng.
Răng sữa mọc khác
nhau về thời gian tuỳ theo từng trẻ, có trẻ sinh ra đã
mọc răng nhưng ngược lại có những trẻ mọc răng đầu tiên vào khoảng 13-14
tháng.
Như vậy không thể
dựa vào những răng mọc để đánh giá sự phát triển thể chất ở trẻ em. Bình thường
những răng sữa mọc theo thời gian như
sau:
Răng cửa giữa
dưới
Răng cửa bên,
dưới
Răng cửa giữa
trên
Răng cửa bên,
trên
Răng hàm nhỏ,
dưới
Răng hàm nhỏ
trên
Răng nanh
dưới
Răng nanh
trên
Răng hàm số 2
dưới
|
6
tháng
7
tháng
7
1/2
9
12
14
16
18
20
|